Mô hình nuôi biển tại tỉnh Quảng Ninh
Hiệu quả từ thực tế
Nuôi biển công nghệ cao đang trở thành một hướng đi chiến lược tại Việt Nam, đặc biệt ở các tỉnh ven biển như Quảng Ninh và Ninh Thuận, nơi sở hữu tiềm năng tự nhiên dồi dào và chiến lược phát triển bền vững được đặt lên hàng đầu.
Tỉnh Quảng Ninh, với hơn 6.100 km² mặt biển và hệ thống đầm, vịnh phong phú, đã khai thác tối đa tiềm năng nuôi biển thông qua các mô hình công nghệ cao. Một trong những mô hình tiêu biểu là nuôi hàu Thái Bình Dương tại huyện Vân Đồn. Từ năm 2006, giống hàu này được nhập từ Nhật Bản, sau đó được bản địa hóa thành công nhờ điều kiện tự nhiên phù hợp của vùng biển Đông Bắc. Hàu được nuôi trong môi trường tự nhiên, tránh xa khu vực du lịch và công nghiệp, đảm bảo chất lượng cao và giá trị dinh dưỡng vượt trội. Đến nay, mô hình này đã trở thành sản phẩm chủ lực, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động địa phương.
Ngoài ra, mô hình nuôi tôm hùm và cá biển trong lồng bè hiện đại cũng được triển khai rộng rãi. Hợp tác xã Thủy sản Trung Nam và Làng chài Bái Tử Long tại Vân Đồn đã áp dụng công nghệ lồng nuôi bằng vật liệu HDPE (nhựa độ bền cao), thay thế lồng gỗ truyền thống. Sau bão số 3 (Yagi) năm 2024, các hợp tác xã này nhanh chóng khôi phục sản xuất với hơn 5.400 ha giàn bè nuôi hàu và 6.400 ô lồng cá, đạt sản lượng vượt trước bão. Công nghệ này không chỉ tăng năng suất mà còn giảm thiểu ô nhiễm, phù hợp với xu hướng phát triển bền vững.
Còn tại tỉnh Ninh Thuận, nơi có bờ biển dài hơn 105 km và vùng lãnh hải 18.000 km², nổi bật với mô hình nuôi mực bán tự nhiên do anh Nguyễn Bá Ngọc tại xã Thanh Hải, huyện Ninh Hải tiên phong. Sử dụng lồng nuôi bằng nhựa HDPE với diện tích 2.400 m², mô hình này thả 10.000 con mực giống mỗi lồng, sau 5-6 tháng cho thu hoạch khoảng 7 tấn mực, mang lại lợi nhuận 400-500 triệu đồng/vụ, với hai vụ mỗi năm. Đặc biệt, đáy lồng mở để mực tận dụng thức ăn tự nhiên, giảm chi phí và bảo vệ môi trường. Đây là mô hình đầu tiên tại Việt Nam áp dụng công nghệ này, mở ra tiềm năng nhân rộng.
Bên cạnh đó, tỉnh Ninh Thuận cũng phát triển nuôi tôm hùm, cá bớp, cá mú trong lồng bè tại khu vực C1, C2 (xã Thanh Hải) với hơn 3.560 lồng, sản lượng đạt 80 tấn tôm hùm và 560 tấn cá biển năm 2021. Mô hình nuôi thử nghiệm mực bán tự nhiên và các loài nhuyễn thể như hàu cũng đang được mở rộng, hướng tới sản lượng 5.000 tấn vào năm 2030. Ngoài ra, tỉnh còn đầu tư vào sản xuất giống thủy sản, với mục tiêu đạt 625 triệu con giống, trong đó 25 triệu con cá biển và 600 triệu con nhuyễn thể.
Chính sách làm nền tảng phát triểnNhững mô hình nuôi biển công nghệ cao đều là cách làm rất mới và mạnh dạn của người dân và doanh nghiệp. Một trong những yếu tố để những mô hình trên có hiệu quả cao đó là sự vào cuộc của chính quyền địa phương, bằng những chính sách rất cụ thể dọn đường cho phát triển sản xuất.
Tại tỉnh Quảng Ninh, chính quyền địa phương đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ sau bão số 3, bao gồm giao biển cho hợp tác xã và doanh nghiệp, cùng các gói hỗ trợ tài chính từ ngân hàng. Tỉnh ưu tiên đầu tư hạ tầng giao thông kết nối các khu nuôi biển với cảng cá và khu chế biến, đồng thời khuyến khích chuyển đổi lồng gỗ sang lồng HDPE với chính sách hỗ trợ trả góp (chỉ 30% giá trị ban đầu, trả dần trong 3 vụ). Đây là động lực lớn để ngư dân và doanh nghiệp đầu tư công nghệ mới.
Tỉnh Ninh Thuận cũng đã tận dụng các chính sách từ Luật Thủy sản 2017, cung cấp ưu đãi thuế, phí và tín dụng nông nghiệp. Tỉnh hỗ trợ ngân sách Trung ương đầu tư vùng nuôi công nghệ cao, bảo hiểm cho người lao động, và lập hồ sơ môi trường để cấp phép nuôi biển. Ngoài ra, Ninh Thuận tổ chức liên kết với các viện nghiên cứu, doanh nghiệp, và Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam để chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong sản xuất giống và chế biến sản phẩm.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã cho ra đời Đề án phát triển nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn 2045 (Quyết định 1664/QĐ-TTg), đặt mục tiêu diện tích nuôi biển đạt 280.000 ha vào năm 2025, sản lượng 850.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu 0,8-1 tỷ USD; đến 2030, diện tích tăng lên 300.000 ha, sản lượng 1,45 triệu tấn, xuất khẩu 1,8-2 tỷ USD. Đề án nhấn mạnh chuyển đổi từ nuôi truyền thống sang công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao như IoT giám sát, năng lượng mặt trời, và lồng nuôi chịu bão.
Bộ đã yêu cầu Tổng cục Thủy sản hoàn thiện Nghị định hỗ trợ nuôi biển, xây dựng tiêu chuẩn giống, thức ăn, và môi trường. Các tỉnh trọng điểm như Quảng Ninh và Ninh Thuận được định hướng phát triển vùng nuôi xa bờ, gắn với du lịch và bảo tồn biển. Đồng thời, Bộ thúc đẩy nghiên cứu giống mới (cá mú, tôm hùm, nhuyễn thể) và quan trắc môi trường để phòng chống dịch bệnh, thích ứng biến đổi khí hậu.
Các mô hình như tại Quảng Ninh và Ninh Thuận đã chứng minh hiệu quả kinh tế rõ rệt. Tại Quảng Ninh, sản lượng thủy sản tăng trưởng đều đặn, với doanh thu cảng biển đạt 14.840 tỷ đồng giai đoạn 2019-2023. Ninh Thuận ghi nhận lợi nhuận cao từ mực bán tự nhiên và tôm hùm, đồng thời giảm áp lực khai thác ven bờ. Tuy nhiên, thách thức như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, và biến đổi khí hậu vẫn tồn tại, đòi hỏi sự đầu tư đồng bộ.
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan từng đưa ra nhận định: "Bằng trí tuệ, tri thức chúng ta phải làm giàu cho biển thì biển làm giàu cho chúng ta. Một khi khai thác kiệt quệ thì chúng ta kiệt quệ, biển sạch thì tâm hồn chúng ta sạch, biển giàu thì chúng ta giàu. Nuôi biển là nuôi dưỡng đại dương, nuôi chính con người hôm nay và thế hệ mai sau, từ đó, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cấu trúc lại ngành hàng và ngư dân, doanh nghiệp".
Đỗ Hương
Link nội dung: https://www.dulichgiaitri.vn/nuoi-bien-cong-nghe-cao-gop-phan-phat-trien-ben-vung-nganh-thuy-san-a212997.html