Nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: 80 năm, những quyết sách đột phá của Chính phủ tạo nên kỳ tích phát triển

(Chinhphu.vn) - Nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2025) và 80 năm thành lập Chính phủ (28/8/1945 - 28/8/2025), nguyên Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Đỗ Trung Tá đã có những chia sẻ sâu sắc về vai trò chỉ đạo, điều hành của Chính phủ qua các thời kỳ. Theo ông, chính những quyết sách sáng suốt, quyết liệt cùng những cơ chế đột phá của Chính phủ đã trở thành động lực then chốt, tạo nên kỳ tích phát triển của đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông.

Nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: 80 năm, những quyết sách đột phá của Chính phủ tạo nên kỳ tích phát triển- Ảnh 1.

Nguyên Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Đỗ Trung Tá - Ảnh: VGP/Thu Giang

Trong cuộc trao đổi, nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá cũng đưa ra quan điểm về 4 trụ cột then chốt để Việt Nam bứt phá và phát triển bền vững trong kỷ nguyên số. Để vươn lên, Việt Nam không chỉ thừa hưởng tinh hoa quốc tế mà còn phải đóng góp những giá trị độc đáo của mình cho thế giới.

Thưa ông, nhìn lại chặng đường 80 năm qua, ông đánh giá như thế nào về vai trò và những thành tựu nổi bật trong công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ?

Nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: Nhìn lại lịch sử 80 năm qua, có thể thấy vai trò của Chính phủ qua các thời kỳ là vô cùng quan trọng. Chính phủ đã luôn bám sát đường lối, chủ trương của Đảng, từ đó đề ra những chiến lược, chính sách, cơ chế phù hợp để huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân.

Đặc biệt, Chính phủ đã thể hiện sự tài trí và quyết tâm rất cao trong việc dẫn dắt đất nước vượt qua muôn vàn khó khăn, từ chiến tranh, đói nghèo, để đạt được những thành tựu to lớn như ngày hôm nay và vững bước vào kỷ nguyên mới.

Trong quá trình công tác, tôi có cơ hội làm việc với nhiều đời Thủ tướng trên cương vị Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông, sau đó là Phái viên của Thủ tướng Chính phủ về Công nghệ thông tin. Điều tôi luôn cảm nhận sâu sắc là các Thủ tướng đều dành sự quan tâm, tin tưởng, ủng hộ và tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ như chúng tôi phát huy hết khả năng. Ở các đồng chí, tôi thấy rõ tinh thần cống hiến vì đất nước, không màng lợi ích riêng. Chính sự tâm huyết đó đã khơi dậy, quy tụ được trí tuệ, sức mạnh của toàn xã hội, tạo nên những bước đột phá trong từng giai đoạn phát triển.

Là người có nhiều năm công tác trong ngành Bưu chính Viễn thông, ông cảm nhận thế nào về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ trong việc kiến tạo hạ tầng thông tin, tạo nền tảng cho công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế?

Nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: Ngay từ khi lập nước, Bác Hồ đã xác định ngành Bưu điện là huyết mạch thông tin, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và điều phối lực lượng.

Suốt 2 cuộc kháng chiến, với tinh thần "đứt dây như đứt ruột, gãy cột như gãy xương", ngành đã không tiếc máu xương để giữ vững thông tin liên lạc, góp phần vào thắng lợi cuối cùng. Ngành Bưu điện cũng là một trong những ngành có số liệt sĩ rất lớn, có lẽ chỉ sau Quân đội và Công an.

Chúng ta sẽ nhớ mãi sự kiện ngành Bưu điện hai miền hợp nhất và cho ra đời con tem mang biểu tượng hình chữ S liền một dải, xóa bỏ hoàn toàn vạch chia cắt ở vĩ tuyến 17. Con tem lịch sử này, ra đời tháng 7/1975, chính là lời tuyên bố đanh thép với thế giới về một nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất.

Ngay sau ngày đất nước thống nhất, ngành đã nhanh chóng khôi phục, nối liền thông tin Bắc - Nam bằng tuyến dây đồng dài 2.000 km, dù mỗi đôi dây khi ấy chỉ đáp ứng được 15 cuộc gọi đồng thời. Chỉ vài năm sau, chúng ta xây dựng trạm vệ tinh mặt đất kết nối mạng Intersputnik với Liên Xô, bảo đảm thông tin với các nước xã hội chủ nghĩa; tiếp cận công nghệ tổng đài analog tiên tiến từ Đức lúc bấy giờ. Đồng thời, Việt Nam cũng sử dụng dung lượng vệ tinh Intelsat để duy trì thông tin với các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa, mở rộng kênh liên lạc ra thế giới.

Khi bước vào giai đoạn Đổi mới, trong bối cảnh đất nước còn bộn bề khó khăn, ngành đi đầu trong công cuộc đổi mới. Đây cũng là ngành kinh tế đầu tiên được trao tặng Huân chương Sao Vàng. Điều này cho thấy vị trí đặc biệt của ngành: Vừa là hậu cần, vừa là ngành kinh tế, vừa là dịch vụ nền tảng cho các lĩnh vực khác và quan trọng nhất là đóng góp to lớn vào sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.

Tôi muốn nhấn mạnh đến những quyết sách mang tính lịch sử của Chính phủ đã tạo ra bước ngoặt cho ngành. Trong đó phải kể đến chiến lược "Đi thẳng vào công nghệ số". Vào thời điểm mật độ điện thoại của Việt Nam chỉ đạt 18 máy/1.000 dân, việc Chính phủ ủng hộ chủ trương táo bạo này là một quyết định vô cùng dũng cảm. Chúng ta đã dám bỏ đi những thiết bị analog còn rất mới để đầu tư vào công nghệ số, một bước đi mà ngay cả nhiều nước phát triển lúc bấy giờ cũng chưa thực hiện triệt để.

Quyết tâm đó được tiếp sức bởi một cơ chế đột phá khác, đó là "Tự vay, tự trả". Năm 1987, ngành Bưu điện đã xin Chính phủ cho phép từ bỏ ngân sách nhà nước và tự chủ về tài chính. Đây là một quyết định mang tính đột phá, giải phóng sức sáng tạo và giúp ngành có nguồn lực để đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng. Chính phủ không chỉ đồng ý mà còn sẵn sàng bảo lãnh cho các khoản vay bằng tài sản quốc gia, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối; tuy nhiên ngành đã tự lực vươn lên mà không cần dùng đến sự bảo lãnh đó.

Để có nguồn lực, chúng ta đã thực hiện chính sách "lấy ngoài nuôi trong" và mở cửa hợp tác quốc tế. Với tư duy đối ngoại khéo léo "tạm gác lại quá khứ, hướng tới tương lai", Chính phủ đã tạo điều kiện để ngành hợp tác với tất cả các đối tác, từ các đối tác truyền thống đến cả những nước từng ở phía bên kia chiến tuyến như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản... Chúng ta đã biến thù thành bạn, tận dụng công nghệ, kinh nghiệm quản lý và vốn của họ để hiện đại hóa mạng lưới. Chính sách này không chỉ giúp chúng ta có được công nghệ hiện đại mà còn làm giảm giá thành thiết bị tới 20-30% nhờ sự cạnh tranh.

Đặc biệt, phải kể đến việc mở Internet. Năm 1996, chính Ban Cán sự Đảng của Tổng cục Bưu điện đã trình Trung ương và được Chính phủ ủng hộ việc mở Internet. Thủ tướng Phan Văn Khải đã chỉ đạo phải hoàn thành mọi thủ tục trong vòng một năm. Nhờ đó, Việt Nam đã khai trương dịch vụ Internet vào tháng 11/1997, tạo ra một cuộc cách mạng thực sự về thông tin. Bên cạnh đó, Chính phủ đã đi trước một bước khi chỉ đạo đưa máy tính vào trường học từ năm 2004, nghiên cứu IPv6 từ 2005, tạo nền tảng vững chắc cho sự bùng nổ của Internet sau này.

Một trong những dấu ấn nữa là sự chỉ đạo quyết liệt, tầm nhìn chiến lược của Chính phủ đã góp phần hiện thực hóa thành công dự án phóng vệ tinh Vinasat-1 vào năm 2008 đánh dấu một cột mốc lịch sử quan trọng, giúp Việt Nam hoàn chỉnh hệ thống viễn thông bao gồm cả mặt đất và cả không gian, giảm sự phụ thuộc vào vệ tinh thuê của nước ngoài.

Nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: 80 năm, những quyết sách đột phá của Chính phủ tạo nên kỳ tích phát triển- Ảnh 2.

Tổng Bí thư Đỗ Mười đến thăm dây chuyền sản xuất cáp thông tin của ngành Bưu điện, năm 1994 - Ảnh tư liệu

Linh hoạt trong điều hành, kiến tạo môi trường cạnh tranh

Trong những thành tựu đó, điều gì để lại cho ông ấn tượng sâu sắc nhất về vai trò của Chính phủ?

Nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: Ấn tượng sâu sắc nhất của tôi là sự lắng nghe và ủng hộ của Chính phủ. Chưa bao giờ có đề xuất nào của ngành trình lên mà bị ách lại. Chính phủ luôn lắng nghe, chia sẻ và ra quyết định một cách quyết đoán. Chiến lược Tăng tốc phát triển Bưu điện giai đoạn 1993–2000 là minh chứng rõ nét. Ngành Bưu điện đặt mục tiêu phát triển mạnh mẽ hạ tầng và dịch vụ viễn thông. Tuy nhiên, chỉ sau 2 năm đầu triển khai (1993–1995), các chỉ tiêu cơ bản mà chiến lược dự kiến cho cả 5 năm đã được hoàn thành.

Chính phủ cũng rất linh hoạt trong việc điều chỉnh cơ chế. Với những đặc thù của ngành, lúc bấy giờ nếu áp dụng Luật Đấu thầu một cách cứng nhắc sẽ gây ra nhiều khó khăn. Chính phủ đã lắng nghe và đề nghị thay đổi luật để phù hợp hơn, tạo điều kiện cho ngành phát triển.

Chính nhờ sự tin tưởng và tạo điều kiện đó, ngành đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ có chuyên môn, làm chủ công nghệ từ cáp quang, truyền dẫn số, viba đến tổng đài điện tử số...

Chính phủ còn kiến tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Việc cho phép Viettel ra đời và tạo điều kiện ban đầu để doanh nghiệp này đứng vững trước khi bước vào cạnh tranh sòng phẳng là một minh chứng. Nhờ đó, cả 2 doanh nghiệp VNPT, Viettel đều có lợi, cùng nhau đưa đất nước đi lên, tạo ra một thị trường viễn thông phát triển năng động.

Có thể nói, những thành tựu của ngành Bưu chính Viễn thông và công nghệ thông tin ngày hôm nay, từ một ngành lạc hậu trở thành một trụ cột của kinh tế số, đều có dấu ấn sâu đậm của sự lãnh đạo, chỉ đạo và ủng hộ quyết liệt từ Chính phủ. Đó là niềm tự hào không chỉ của riêng ngành mà còn của cả đất nước.

Nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: 80 năm, những quyết sách đột phá của Chính phủ tạo nên kỳ tích phát triển- Ảnh 3.

Lễ khai trương dịch vụ Internet Việt Nam vào ngày 19/11/1997 - Ảnh tư liệu

Bốn trụ cột chiến lược cho Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trong giai đoạn tới, ông kỳ vọng Chính phủ sẽ ưu tiên tập trung vào những lĩnh vực, chính sách nào để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững?

Nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: Tôi xin phép không nói quá rộng, mà đi thẳng vào những vấn đề cốt lõi mang tính động lực cho sự phát triển quốc gia trong bối cảnh kỷ nguyên số. Khoa học công nghệ luôn được xác định là nền tảng, với những lĩnh vực chiến lược đòi hỏi sự chung tay của cả nước. Trong bối cảnh đó, tôi đã suy nghĩ và đúc kết thành 4 trụ cột mà tôi cho rằng sẽ là động lực phát triển mạnh mẽ cho Việt Nam trong giai đoạn tới.

Trụ cột đầu tiên và nền tảng nhất chính là thông minh hóa hạ tầng số. Trước đây, chúng ta nói nhiều về hạ tầng viễn thông. Giờ đây, yêu cầu đã cao hơn rất nhiều. Chúng ta cần một hạ tầng số thông minh, đó phải là một hệ thống chung cho tất cả các lĩnh vực, có khả năng tự sửa chữa, tự tối ưu, hòa hợp và liên kết chặt chẽ với nhau.

Chúng ta đã có những bước tiến lớn: Internet, vệ tinh, cáp quang... đã giúp chất lượng dịch vụ không còn phụ thuộc vào khoảng cách, thông tin có thể đến mọi nơi bất kể địa hình. Nhưng khi bộ máy hành chính được tinh gọn, một cấp chính quyền (cấp huyện) được cắt giảm, thì gánh nặng công việc sẽ dồn về các cấp còn lại. Lúc này, chính công nghệ thông tin và các sáng kiến đổi mới phải "chạy vào" để lấp chỗ trống, để bảo đảm hiệu quả công việc không giảm sút.

Hạ tầng số phải đủ mạnh để các sản phẩm công nghệ mang tính chiến lược có thể triển khai trên toàn quốc, tránh tình trạng phần mềm "mỗi nơi một kiểu", không đồng bộ, không liên thông được với nhau. Đây là nền tảng để tài nguyên số - thứ tài nguyên quan trọng nhất trong thời đại mới được khai thác một cách hiệu quả nhất.

Trụ cột thứ hai là trí thức hóa đội ngũ lao động và toàn dân. Khi chuyển đổi số đã đi sâu xuống từng người dân, chúng ta cần một cuộc "bình dân học vụ số" đúng nghĩa. Mọi người dân phải trở thành công dân số, dù trình độ khác nhau nhưng đều hiểu và ứng dụng được công nghệ vào công việc, đời sống.

Trong bối cảnh dân số đang già đi và tỷ lệ sinh giảm, công nghệ sẽ phải gánh vác một phần vai trò chăm sóc, hỗ trợ. Việc đào tạo phải trở thành nhu cầu tự thân của xã hội. Nhà nước cần có những cơ chế đột phá như miễn học phí, chăm lo sức khỏe toàn diện để tạo ra một thế hệ công dân thông minh, khỏe mạnh, có khả năng học tập suốt đời. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, khẳng định vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ.

Trụ cột thứ ba là toàn cầu hóa về tiềm năng. Toàn cầu hóa không phải là con đường một chiều. Chúng ta không thể chỉ thừa hưởng tinh hoa, công nghệ của thế giới mà không đóng góp lại điều gì. Việt Nam phải chủ động đưa truyền thống, di sản, văn hóa và bản sắc con người Việt Nam ra với thế giới.

Đặc biệt, trong công nghiệp công nghệ thông tin, tôi đề xuất một tư duy đột phá: chiến lược phát triển "từ Z đến A". Thay vì đi từ A (linh kiện) đến Z (sản phẩm hoàn chỉnh) như truyền thống, chúng ta hãy làm chủ cái quan trọng nhất là Z: ý tưởng, thiết kế, phần mềm, giải pháp tổng thể. Đó là trí tuệ, là giá trị cốt lõi của chúng ta. Còn những phần cứng, linh kiện (A), chúng ta có thể mua từ bất cứ đâu hiệu quả nhất.

Chúng ta phải tạo ra được những AI (trí tuệ nhân tạo) của Việt Nam, làm chủ công nghệ. Dù không đi từ đầu như các cường quốc, nhưng chúng ta có thể tận dụng nền tảng mở của họ để xây dựng các giải pháp của riêng mình. Có như vậy, tiềm năng của Việt Nam mới thực sự sánh vai được với các nước.

Cuối cùng, trụ cột thứ tư là tiêu chuẩn hóa xã hội số. Khi công nghệ phát triển như vũ bão, đặc biệt là AI, những nguy cơ và mặt trái cũng xuất hiện. Chúng ta không thể chỉ nói đến tiêu chuẩn về vật chất, tinh thần như trước, mà phải xây dựng một hệ thống quy chuẩn, luật lệ và đạo đức cho cuộc sống trong không gian số.

Đó là đạo đức của người phát triển AI, đạo đức của người ứng dụng AI và đạo đức của người công dân số. An ninh mạng, an toàn thông tin trong hệ thống chính quyền, tài chính, ngân hàng, quốc phòng... đều phải được bảo vệ bằng những bộ luật và quy định chặt chẽ. Chúng ta cần một khung pháp lý vững chắc để xã hội số phát triển lành mạnh, an toàn và bền vững.

Nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: 80 năm, những quyết sách đột phá của Chính phủ tạo nên kỳ tích phát triển- Ảnh 4.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu thực hiện nghi thức phát động phong trào “Bình dân học vụ số” - Ảnh: VGP

Nhân dịp 80 năm Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2025), 80 năm ngày thành lập Chính phủ, ông muốn gửi gắm thông điệp gì tới Chính phủ và mỗi người dân về con đường phát triển phía trước?

Nguyên Bộ trưởng Đỗ Trung Tá: Tôi cho rằng chúng ta đang đi đúng hướng và cần tiếp tục phát huy những giá trị đã được khẳng định.

Trong đối ngoại, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự trí tuệ, khôn khéo, "biết mình biết ta". Chúng ta đã hòa hợp với thế giới, trở thành bạn của nhiều quốc gia để tiếp thu công nghệ mới. Quan điểm của Việt Nam luôn rõ ràng: Hợp tác sòng phẳng trên tinh thần "cùng thắng" (win-win).

Chính phủ cũng cởi mở, công khai, minh bạch và đã tạo dựng được sự đồng thuận xã hội, đặc biệt là sự "dấn thân" của Chính phủ. Trong những thời khắc khó khăn nhất của đất nước, từ thiên tai, bão lũ, đến đại dịch COVID-19, hình ảnh của các cấp lãnh đạo luôn hiện diện kịp thời, sát cánh cùng người dân đã củng cố vững chắc niềm tin của toàn xã hội. Hãy tiếp tục phát huy tinh thần đó.

Tôi tin rằng, đối với mỗi người dân chúng ta, bài học lớn nhất được đúc kết là phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng – điều đã được lịch sử 80 năm qua khẳng định. Đồng thời, trong bối cảnh hiện nay, mỗi cá nhân cần ý thức rõ trách nhiệm của mình, không ngừng sáng tạo, nỗ lực để tạo ra hiệu quả trong công việc, qua đó góp phần nâng cao vị thế và uy tín quốc gia. Chỉ khi cùng nhau phát huy trí tuệ Việt Nam, chúng ta mới có thể đưa đất nước phát triển mạnh mẽ và bền vững.

Chưa bao giờ sự cống hiến, quyết tâm và lòng dũng cảm đi vào những lĩnh vực khó khăn, mới mẻ lại được đòi hỏi cao như lúc này.

Trân trọng cảm ơn ông!

Thu Giang (thực hiện)

Tham khảo thêm
TRỰC TIẾP: Long trọng kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Chính phủTRỰC TIẾP: Long trọng kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Chính phủ



Link nội dung: https://www.dulichgiaitri.vn/nguyen-bo-truong-do-trung-ta-80-nam-nhung-quyet-sach-dot-pha-cua-chinh-phu-tao-nen-ky-tich-phat-trien-a228266.html