Giải phóng sức bật của nền kinh tế
Nghị quyết số 66 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đặt ra mục tiêu đến năm 2030, yêu cầu là phải hình thành một hệ thống pháp luật thống nhất, khả thi và cơ chế thực thi nghiêm minh, nhất quán.
Đây là bước chuyển từ trạng thái "có luật nhưng khó thi hành" sang trạng thái "luật tốt và thực thi tốt". Về chính trị, điều này đồng nghĩa với việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hệ thống chính trị, chấm dứt tình trạng chồng chéo, trì hoãn, lạm dụng kẽ hở pháp luật.
Về pháp lý, đã tạo ra hành lang tin cậy cho người dân và doanh nghiệp, bảo đảm quyền con người, quyền công dân được tôn trọng, đồng thời giải phóng các nguồn lực xã hội phục vụ phát triển.

Luật gia Nguyễn Bá Sơn - Chủ tịch Hội Luật gia Tp.Đà Nẵng.
Nhìn xa hơn, Nghị quyết 66 đặt ra viễn cảnh đến năm 2045, khi đất nước kỷ niệm 100 năm thành lập nước, hệ thống pháp luật Việt Nam đạt chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực quốc tế.
Hiến pháp và pháp luật sẽ không chỉ là công cụ quản lý, mà trở thành chuẩn mực ứng xử của toàn xã hội, được mọi cá nhân, tổ chức tự giác tuân thủ. Đây là bước phát triển văn hóa chính trị, pháp lý, đưa Nhà nước pháp quyền XHCN lên tầm cao mới, bảo đảm một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và hội nhập.
Thực tiễn cho thấy vẫn còn tình trạng "nợ" văn bản quy định chi tiết, làm chậm hiệu lực của nhiều đạo luật, gây ách tắc trong quản lý và khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.
Đây là "điểm nghẽn" mà Nghị quyết đã yêu cầu tháo gỡ ngay trong giai đoạn 2025. Từ đó, Nghị quyết đề ra mục tiêu đến năm 2030, phải đưa môi trường đầu tư của Việt Nam vào nhóm 3 ASEAN.
Để thực hiện mục tiêu đó, pháp luật phải thực sự là công cụ bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, bảo vệ quyền tài sản và tự do kinh doanh. Đây là nhu cầu chính đáng của cộng đồng doanh nghiệp, đồng thời là điều kiện thu hút FDI chất lượng cao.
Thời gian qua, đặc biệt là sau khi Luật Doanh nghiệp 2020 và Luật Đầu tư 2020 được ban hành, môi trường kinh doanh có cải thiện rõ rệt, nhiều điều kiện kinh doanh được cắt giảm. Đây là minh chứng khi hệ thống pháp luật thống nhất, minh bạch và khả thi, sức bật của nền kinh tế được giải phóng.
Cần khẳng định rằng, Nghị quyết số 66 tiếp tục khẳng định, công tác xây dựng và thi hành pháp luật chính là "đột phá của đột phá". Đây là bước phát triển mới trong tư duy lãnh đạo, khi pháp luật không chỉ được nhìn nhận là công cụ quản lý, mà còn là hạ tầng mềm của phát triển quốc gia, bảo đảm ổn định chính trị, khơi thông nguồn lực, củng cố niềm tin của nhân dân và doanh nghiệp.
Từ "công cụ quản lý" sang "chuẩn mực văn minh"
Một quan điểm then chốt của Nghị quyết 66 là xóa bỏ tư duy "không quản được thì cấm", thay bằng tư duy "tạo điều kiện để phát triển". Thực tiễn cải cách thủ tục hành chính thời gian qua cho thấy, khi cắt giảm hơn 60% điều kiện kinh doanh không cần thiết, môi trường đầu tư được cải thiện rõ rệt, niềm tin doanh nghiệp tăng lên.
Một điểm nhấn khác là quan điểm "xây dựng pháp luật phải đi đôi với tổ chức thi hành nghiêm minh, nhất quán". Bài học thực tiễn rất rõ, nhiều luật được Quốc hội thông qua nhưng chậm được hướng dẫn, dẫn đến tình trạng "luật chờ nghị định", gây ra khoảng trống pháp lý.
Thậm chí, có những văn bản ban hành nhưng không đủ tính khả thi, buộc phải sửa đổi trong thời gian ngắn. Nghị quyết 66 yêu cầu khắc phục triệt để tình trạng này, đồng thời nâng cao ý thức pháp luật trong xã hội, coi việc tuân thủ pháp luật là chuẩn mực văn hóa chứ không chỉ là nghĩa vụ pháp lý.
Nghị quyết 66 đưa ra quan điểm đột phá, đầu tư cho pháp luật cũng chính là đầu tư cho phát triển, tương tự như đầu tư cho hạ tầng cứng hay nguồn nhân lực. Thực tiễn cho thấy, những quốc gia thành công trong cải cách thể chế như: Singapore, Hàn Quốc… đều dành nguồn lực đáng kể để hiện đại hóa hệ thống pháp luật. Đây cũng là hướng đi tất yếu cho Việt Nam trong kỷ nguyên chuyển đổi số.
Nghị quyết 66 đã xác định một lộ trình cải cách pháp luật hai tầng rõ rệt: Mục tiêu trung hạn đến năm 2030 và tầm nhìn dài hạn đến năm 2045. Đến 2030, yêu cầu đặt ra là tái lập trật tự pháp lý trong nước, xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, minh bạch, khả thi, có cơ chế thi hành nghiêm minh, đồng bộ, khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo, bất cập đang kìm hãm phát triển.
Trên nền tảng đó, tầm nhìn 2045 mang ý nghĩa kiến tạo nền pháp quyền hiện đại, nâng tầm quốc gia, khi đất nước kỷ niệm 100 năm thành lập. Mục tiêu dài hạn đặt ra hệ thống pháp luật chất lượng cao, tiệm cận chuẩn mực quốc tế, nhưng đồng thời vẫn giữ vững định hướng XHCN.
Hiến pháp và pháp luật phải trở thành chuẩn mực ứng xử xã hội, thành văn hóa pháp quyền tự giác, nơi tuân thủ pháp luật là đạo đức thể chế, trật tự xã hội dựa trên niềm tin và dự đoán hợp lý.
Đây là bước chuyển từ việc coi pháp luật như "công cụ quản lý" sang "chuẩn mực văn minh", từ phương tiện điều hành sang giá trị dẫn dắt phát triển quốc gia.
Mối quan hệ giữa hai tầng mục tiêu thể hiện sự nhất quán chính trị, pháp lý: Năm 2030 là điều kiện tiên quyết, còn 2045 là đỉnh cao chiến lược. Nếu không xử lý dứt điểm những điểm nghẽn pháp luật trước 2030, thì tầm nhìn 2045 khó có cơ sở thực hiện.
Ngược lại, chính khát vọng 2045 đã định hình yêu cầu cải cách trước mắt, buộc mục tiêu 2030 phải xoay quanh việc thiết lập nền tảng pháp lý đồng bộ và cơ chế thi hành hiệu quả.
Sự kết nối này cho thấy, Đảng đã hoạch định một lộ trình liên tục, không ngắt quãng: trung hạn là bước đi thực tế, dài hạn là tầm nhìn chiến lược, cùng hòa quyện trong một dự án thể chế hóa khát vọng phát triển quốc gia.
Luật gia Nguyễn Bá Sơn - Chủ tịch Hội Luật gia Tp.Đà Nẵng